Người dân ở đây thèm rượu còn hơn thèm cơm, vậy nên ông chủ nhà phải một tay giữ chặt chai rượu trên bàn, chai rượu trong túi phải buộc thật chặt, bởi sơ sẩy ra là hết rượu mấy vòng người đang xếp lớp quanh bàn sẽ giải quyết hết trong vòng vài phút.

Tròn 3 năm từ ngày đặt chân đến xã biên giới Nậm Ban, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu, nơi có dân tộc Mảng, một tộc dân chỉ còn hơn 1.000 người, đang được bộ đội biên phòng tỉnh Lai Châu giúp sức hồi sinh, chúng tôi mới có dịp trở lại.

Vùng đất khó khăn nhất cả nước đang gượng mình khó nhọc đứng dậy, với sự giúp sức của lực lượng bộ đội biên phòng.

Kỳ 1: Nậm Ban thức giấc

Phó Bí thư Đảng ủy xã Nậm Ban, Phạm Minh Hải cười tươi khi gặp: "Nậm Ban chào đón mọi người trở lại thăm xã biên giới đặc biệt này. Nậm Ban bây giờ đã khác lắm".

Nậm Ban bây giờ không còn hình ảnh những mái lều tranh, những ngôi nhà sàn lụp xụp 3 năm trước. Thay vào đó, là những mái nhà lợp tôn đỏ hoặc được nhà nước cấp phát, và thêm nhiều ngôi nhà sàn mới được dựng lên, cột gốc sáng loáng.

3 năm trước, những đứa trẻ cấp 1-2 ở bản trung tâm xã Nậm Ban là bản Nậm Ô muốn có cơm ăn thì phải về nhà cõng gạo, sau buổi học thì hỳ hục xuống suối tự bắt lấy những con cá bé không bằng 2 ngón tay, lên rừng hái rau dại về nấu những nồi canh lõng bõng nước để ăn đỡ đói lòng. Nơi lưu trú của các em chỉ là những mái lều che tạm.

Nay, học sinh đi học đã được nhà nước trợ cấp. Hàng loạt ngôi nhà gỗ, do các cơ quan tài trợ, do Bộ đội Biên phòng dựng giúp, mái tôn rực màu nắng, gỗ thưng kín gió, đã được dựng lên. Bữa cơm của học sinh đã có bếp ăn tập thể nấu chung, đủ khẩu phần, cơm nóng canh ngọt.

Cô giáo Hà Thị Châm mãi tận huyện Thanh Sơn (tỉnh Phú Thọ) bén duyên với Nậm Ban từ năm 2007, đến nay đã được tròn 5 năm, đã là hiệu trưởng trường mầm non Nậm Ban.


Một điểm trường mầm non Nậm Ban, tại bản trung tâm Nậm Ô.

Từ những ngày đầu vận động trẻ con đi học không mấy cháu đến trường, nay thì trường mầm non Nậm Ban đã có 15 điểm trường ở khắp các bản, với 17 lớp, gồm 259 học sinh từ 2-5 tuổi, do 22 giáo viên giảng dạy.

Cô Châm kể rằng ở bản Nậm Sảo 1, Nậm Sảo 2 bây giờ hằng ngày học trò đi học đã được bố mẹ nấu cơm cho mang theo. Ở bản Trung Chải 1, Trung Chải 2 phụ huynh đã ý thức được việc mỗi gia đình góp 2.000 đồng/ ngày nhờ các cô ma thức ăn cho các cháu.

Mỗi trẻ đi học mẫu giáo mỗi tháng được Nhà nước hỗ trợ 70.000 đồng, riêng học sinh 5 tuổi thì được 120.000 đồng/ cháu/ tháng. Một trong rất nhiều cách mà nguồn kinh phí nhà nước đã dồn vào cái xã đặc biệt khó khăn này, nơi có 11 bản với 6 dân tộc anh em: Mảng (37,4%), Mông (51,7%), Hà Nhì (5%), Kinh (2,1%), Thái (0,6%), Dao (3%), Mường (0,18%) cùng sinh sống.

Trong số đó, dân tộc Mảng, 4 năm trước, đang đứng bên bờ vực của sự diệt vong vì nạn nghiện rượu và lười lao động.

Bản báo cáo ngày 2/12/2010, sau 3 năm tiến hành củng cố chính trị cơ sở, do Phó Bí thư huyện ủy Sìn Hồ Trương Quang Phiệt ký, thừa nhận rằng năm 2007 "tình hình hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở xã trước khi được củng cố xếp loại yếu kém kéo dài nhiều năm liên tục. Chi bộ xã có 26 đảng viên, trong đó 70% mới biết đọc, biết viết; cấp ủy xã không đủ sức để thực hiện vai trò lãnh đạo; hoạt động của chính quyền và đoàn thể xã kém hiệu quả. Đội ngũ cán bộ, công chức xã cơ bản đủ về số lượng nhưng trình độ thấp; trên 90% cán bộ, công chức xã chưa được đào tạo về chuyên môn và lý luận chính trị. Vai trò trách nhiệm của người đứng đầu không rõ nét. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên rượu chè bê tha, phong cách lãnh đạo độc đoán, hách dịch, mất uy tín với nhân dân".

Cùng với việc Huyện ủy Sìn Hồ quyết định cho 4 cán bộ chủ chốt trong xã nghỉ việc theo chế độ bảo hiểm xã hội và tuyển dụng 3 công chức làm nhiệm vụ giúp việc, thì Đảng ủy Bộ Chỉ huy Biên phòng tỉnh Lai Châu cũng nhanh chóng thành lập một đội công tác gồm 11 cán bộ, chiến sỹ thuộc Đồn biên phòng 303 nằm cắm bản tại Nậm Ban. Trong số đó, một đại úy là tổ trưởng tổ công tác được cắt cử kiêm nhiệm vụ Phó Bí thư Đảng ủy xã: ông Phạm Minh Hải.


Phó Bí thư Đảng ủy xã Nậm Ban, thiếu tá Phạm Minh Hải, người ở lại Nậm Ban.

Người ở lại cùng dân

Năm 2009, 13km đường từ quốc lộ 4D (nay là quốc lộ 12) vào trung tâm xã Nậm Ban bề ngang chỉ khoảng tầm 1m, có những đoạn bị sạt lở còn khoảng 40 cm, một bên là núi, một bên là vực thẳm dựng đứng.

Đường thi thoảng lại bị sạt lở, những người dân sống trong bản muốn ra ngoài thì phải tự sửa lấy đường. Xe máy muốn vào bản Nậm Ô trung tâm xã phải mất 2 tiếng đồng hồ cheo leo bám mép vực, luôn trong tình trạng cài số 1 hoặc 2 dù là khi lên hay xuống dốc.

Nay, dù còn dở dang, bụi mù mịt, nhưng tuyến đường Pa Tần - Mường Tè đã có thể đưa ô tô vào cách trung tâm xã Nậm Ban chừng 2km, rồi dùng xe máy "tăng bo" tụt dốc xuống bản Nậm Ô chỉ mất chừng 10 phút. Đường ô tô vào được, nhanh chóng kéo Nậm Ban về gần hơn với miền xuôi. Đã có giao thương, người miền xuôi đã lên dựng nhà bán vật dụng sinh hoạt hằng ngày, không còn phải tay xách nách mang đủ lương thực thực phẩm mỗi lần vào cắm bản.

Phó Bí thư Đảng ủy xã Nậm Ban Phạm Minh Hải nay đã đeo quân hàm đại úy, thở phào khoe: "Nay toàn đảng bộ xã đã có hơn 60 đảng viên, đoàn kết một lòng vì sự hồi sinh của Nậm Ban".

Phạm Minh Hải (1967) quê ở Phú Thọ, tháng 12/1990 vào lực lượng biên phòng Lai Châu, tháng 8/1992 về công tác tại đồn 299 (Huổi Luông, Sìn Hồ, Lai Châu), đến năm 2005 là đội trưởng đội vận động quần chúng cắm tại xã Huổi Luông, đến cuối năm 2007 được điều về làm tổ trưởng tổ công tác biên phòng cắm bản Nậm Ban.

Trong ký ức khoan nhặt, anh Hải nhớ rằng năm 2004, khi anh cùng với anh Lã Hồng Vương (người vẫn được người dân Nậm Ban gọi là Vương Mảng, Vương đen, nay cũng là thiếu tá, đã rút về đồn 303 sau khi tổ công tác giải tán theo kế hoạch 3 năm) vào đến Nậm Ban, thì được người dân Mảng ở đây mời bữa cơm đặc biệt.


Bản Nậm Ô, trung tâm xã Nậm Ban hôm nay.

Ông chủ nhà 2 bên túi cho vào 2 chai rượu, miệng túi dùng dây thắt chặt lại, còn chai rượu thứ 3 để trên bàn thì luôn chắc tay giữ khư khư. Người già, trẻ con quây vòng trong, vòng ngoài, xếp lớp.

Mỗi chén rượu rót ra, cán bộ biên phòng chưa uống hết, đã được chuyền tay ra vòng ngoài. Về sau anh Hải mới hiểu, người dân ở đây thèm rượu còn hơn thèm cơm, vậy nên ông chủ nhà phải một tay giữ chặt chai rượu trên bàn, chai rượu trong túi phải buộc thật chặt, bởi sơ sẩy ra là hết rượu mấy vòng người đang xếp lớp quanh bàn sẽ giải quyết hết trong vòng vài phút.

Sau 3 năm (2007-2010) Nậm Ban đã xuất hiện những mô hình sản xuất mới như nhà ông Tào A Toi (người dân tộc Mảng) ở bản Nậm Nó 1 đã có tài sản tiền tỷ với 120 con trâu bò, 40 con dê, 1ha ruộng, hơn 2 ha ngô và 4.000m2 ao nuôi cá, thu nhập hằng năm tới 150 triệu đồng.

Từ mức lương thực bình quân đầu người chỉ 153kg/ người/ năm, thu nhập bình quân 2 triệu đồng, tỷ lệ đói nghèo 74%; đến nay, tỷ lệ đói nghèo còn hơn 40%, thu nhập bình quân đầu người đạt 4.000.000 đồng/ người/ năm.

Cuối năm 2010, đội công tác cắm bản Nậm Ban của đồn 303 giải tán theo kế hoạch. Thiếu tá Phạm Minh Hải là người cuối cùng ở lại Nậm Ban thường trực, cùng thiếu úy Kháng A Cầu đã lập gia đình ở bản Nậm Ô, với hàng loạt dự định còn dang dở.

(Còn nữa)

  • Hà Trường