Ngày càng nhiều công nghệ cao (CNC) được ứng dụng rộng rãi trong các ngành kinh tế - xã hội, làm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, vấn đề nhân lực CNC còn là vấn đề lâu dài và đặc biệt quan tâm.

Nhiều ứng dụng công nghệ cao vào cuộc sống

Theo TS. Mai Hà - Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ (KH&CN) - Bộ KH&CN, một số công nghệ như công nghệ thông tin - truyền thông (CNTT - TT), công nghệ sinh học (CNSH) đang ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong các ngành kinh tế - xã hội của đất nước.

Trong lĩnh vực CNTT - TT, có thể kể đến việc hoàn toàn làm chủ công nghệ, thiết kế chế tạo thành công và đưa vào ứng dụng hệ thống SPM. Hệ thiết bị này bước đầu đã đưa vào ứng dụng có kết quả cho hai lĩnh vực KH&CN rất hiện đại là công nghệ nano (chụp topograhy cho các vật liệu đến cỡ nanomet) và sinh học phân tử (chụp ảnh virus để nghiên cứu).

Đặc biệt sự kiện phóng thành công vệ tinh VINASAT-1 (ngày 19/4/2008) lên quỹ đạo và khai thác, kinh doanh hiệu đã giúp hoàn thiện và hiện đại hoá mạng viễn thông quốc gia, đưa thông tin liên lạc đến mọi miền tổ quốc, hiện thực hoá giấc mơ làm chủ vệ tinh viễn thông riêng của Việt Nam.

Trong lĩnh vực CNSH, nhiều thành tựu nghiên cứu gen, tế bào - mô phôi, enzim - protein, vi sinh đã được sử dụng để phát triển nông nghiệp sinh thái bền vững như: phục vụ tái sinh rừng (nhân giống quy mô lớn cây thân gỗ bằng nuôi cấy mô), sản xuất thuốc trừ sâu vi sinh, hỗ trợ canh tác trên đất không thuận lợi (chọn giống kháng hạn, úng, lạnh, phèn, mặn), nhân nhanh các giống cỏ có nguy cơ tuyệt diệt,...

Các nhà CNSH cũng đã thành công trong việc sử dụng công nghệ và nguyên liệu trong nước để sản xuất ra một số loại vắc-xin, chế phẩm sinh học phục vụ chẩn đoán bệnh, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Chúng ta đã chủ động 9/10 loại vắc-xin cho tiêm chủng mở rộng. Thêm nữa, chúng ta cũng đã sản xuất thành công thuốc Artemisinin chống bệnh sốt rét và hàng năm thu được hàng triệu USD nhờ xuất khẩu; nghiên cứu dây chuyền công nghệ chiết xuất từ hoa Hồi tạo ra các chất có tính năng tương tự để sản xuất thuốc Taminflu chữa bệnh cúm gia cầm H5N1;…

Điều khiển máy CNC tại Công ty Bách khoa BKmech

Chúng ta cũng đã nghiên cứu, sản xuất thành công chip vi xử lý RISC 8, 16, 32 bit với công nghệ 0.25um, ứng dụng chip vi xử lý RISC VN8-01 trong các thiết bị điện tử dân dụng; làm chủ công nghệ chế tạo các loại thiết bị cơ khí siêu trường, siêu trọng có độ chính xác cao như hệ thống xi lanh thủy lực trọng tải lớn đến 400 tấn dùng trong các hệ thống đóng mở các công trình thủy lợi, thủy điện (kể cả công trình lớn như thủy điện Sơn La), các loại cần cẩu trọng tải lớn (50 - 100 - 450 – 1.200 tấn) phục vụ cho công nghiệp đóng tàu, thủy điện,...

Khó khăn trong đào tạo nhân lực

TS. Mai Hà cho biết thời gian qua, việc đào tạo nhân lực CNC vẫn theo kênh gửi đi đào tạo ở nước ngoài và đào tạo tại các cơ sở giáo dục trong nước. Chương trình đào tạo bằng ngân sách Nhà nước (gọi tắt là Chương trình 322) đã đào tạo được 1.740 cán bộ từ đại học trở lên ở nhiều nước có nền KH&CN tiên tiến. Thông qua hoạt động của Quỹ Giáo dục Việt Nam - Hoa Kỳ (VEF), Việt Nam đã gửi đào tạo được hơn 100 tiến sĩ, thạc sĩ, phần lớn ngành đào tạo liên quan đến CNTT-TT, CNSH, tự động hóa và cơ điện tử, công nghệ nanô.

Tuy nhiên, TS. Mai Hà cho rằng việc đào tạo nhân lực CNC ở cả trong và ngoài nước còn rất nhỏ bé so với yêu cầu cũng như ứng dụng CNC trong các ngành kinh tế - xã hội. Việc thiếu hụt nhân lực, yếu về trình độ, thiếu các chuyên gia và tổng công trình sư đầu đàn cùng với sự gắn kết chưa chặt chẽ giữa đào tạo và nghiên cứu sản xuất cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc đưa kết quả nghiên cứu vào ứng dụng và thương mại hóa.

Theo dự kiến đào tạo đội ngũ nhân lực CNC, đến năm 2020, các trường Đại học cần tuyển 30.000 sinh viên CNTT, 25.000 sinh viên CNSH, 25.000 sinh viên công nghệ tự động hóa và 25.000 sinh viên công nghệ vật liệu. Bên cạnh đó, phải đào tạo 28.000 người trình độ sau Đại học về các lĩnh vực này.

Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ giảng viên tại các trường đại học về CNC còn rất thiếu. Trong tổng số 5.094 giảng viên cơ hữu của 10 trường Đại học được thống kê, chỉ có khoảng 1.500 giảng viên đúng chuyên ngành CNC, chiếm tỉ lệ 29,9%. Đây quả thực là thách thức lớn và cũng là áp lực lớn đối với việc đào tạo nhân lực cho các ngành CNC ở nước ta.

Một trong những giải pháp nên triển khai thực hiện sớm là Việt Nam cần tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cho hoạt động phát triển CNC, trong đó cần tăng đào tạo công nhân kỹ thuật, đặc biệt là công nhân có tay nghề cao. Chính sách đối với nhân lực CNC trước đây được đề cập trong các chính sách liên quan đến nhân lực KH&CN hoặc chính sách sử dụng nhân tài nói chung như chính sách sử dụng nhân lực; chính sách đào tạo; chính sách ưu đãi Việt kiều;...TS. Mai Hà khẳng định.

Việt Nam đã chủ động được 9/10 loại văc-xin cho tiêm chủng mở rộng
Bên cạnh đó cũng cần bổ sung và cụ thể hóa một số chính sách khác như: chính sách tiền lương đối với nhân lực KH&CN nói chung và nhân lực CNC nói riêng; chính sách thu hút chuyên gia nước ngoài, trí thức Việt kiều; tạo liên kết viện – trường – doanh nghiệp thành mạng lưới nghiên cứu – đào tạo – sản xuất sản phẩm CNC; xây dựng danh mục các chuyên ngành đào tạo cụ thể trong từng lĩnh vực CNC ở bậc đại học và sau đại học, thống nhất chương trình khung đào tạo tạo chuyên gia trong các lĩnh vực CNC;...

Theo thống kê, đến năm 2004, đã có 62 cơ sở đào tạo bậc đại học, 101 cơ sở bậc cao đẳng, 108 cơ sở bậc trung học chuyên nghiệp đào tạo chính quy về CNTT.

Hiện nay, các trường đại học trong cả nước cung cấp cho thị trường nguồn nhân lực CNTT trung bình 110.000 kỹ sư/năm (riêng các trường đại học và cao đẳng ở TP. Hồ Chí Minh hằng năm đào tạo khoảng 15.000 người). Một số trường đại học đào tạo về CNSH, vật liệu mới và tự động hóa như Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Bách khoa TP. Hồ Chí Minh, Đại học Công nghệ - ĐHQG Hà Nội,…

Tính đến năm 2007, Việt Nam có khoảng 220.000 lao động làm việc trong lĩnh vực CNTT – TT; 6.000 cán bộ KH&CN trong lĩnh vực công nghệ vật liệu; 5.000 người làm việc trong các lĩnh vực liên quan (toán học, cơ học, tin học, vật lý) hoặc trực tiếp là tự động hóa, cơ điện tử; khoảng 1500 cử nhân/kỹ sư, 400 thạc sỹ, 90 tiến sỹ về CNSH.

  • Theo truyenthongkhoahoc